













- Cảm giác ngon miệng của việc ăn thịt đến từ thói quen đã tiêm - Cảm giác ngon miệng của việc ăn thịt đến từ thói quen đã tiêm nhiễm vào khẩu vị và tâm lý con người. Khi ăn chay đã quen thì chỉ ngửi hoặc trông thấy thịt cá đã tránh xa rồi chứ đừng nói đến ăn vào miệng. Còn biết cách ăn chay thì không làm cơ thể yếu đuối. Trong các loại thảo mộc đã có đầy đủ tính bổ dưỡng, nguyên khí (sinh lực). Nếu ăn chay làm cơ thể ốm yếu thì chắc bệnh viện phải chứa toàn người ăn chay, nhưng trên thực tế đa số bệnh nhân trong bệnh viện đều ăn thịt cá. Ăn chay mà bị bệnh là không hiểu biết về dinh dưỡng, ăn thịt cá mà không biết dinh dưỡng thì cũng bệnh hoạn như thường. Song nếu xét nguyên nhân sâu xa thì thật ra bệnh hoạn là vì lối sống loạn động trái quy luật thiên nhiên. Có phải ăn chay khiến thân thể sẽ thấp và nhỏ hơn với những người ăn thịt? Người ăn chay có thể ăn trứng không? Tại sao nói ăn chay đóng góp cho môi trường và hòa bình? Nếu mọi người đều ăn rau quả thì có thiếu thực phẩm? - Không. Một mảnh đất dùng hoa màu sẽ cung cấp một số lượng thực phẩm nhiều gấp 11 lần so với trồng cỏ nuôi bò. Mỗi mẫu đất trồng cây cối có thể sinh sản ra 800.000 năng lượng calo, mà nếu đem nuôi loài vật thì chỉ sản sinh được 200.000 calo. Vậy là mất 600.000 calo trong tiến trình trao đổi. Cho nên dùng thực phẩm chay có nhiều hiệu quả kinh tế hơn dùng thịt.
Có phải sở dĩ vấn đề ăn chay chưa được thịnh hành vì ăn chay không ngon miệng và có làm cơ thể yếu đuối không? không nhất thiết .Nếu ăn uống đầy đủ và quân bình thì cũng có thể cao hơn và to lớn hơn. Các loài ăn thực vật như voi, trâu, tê giác, hươu cao cổ… đều to cao, mạnh khỏe hơn loài ăn thịt, lại hiền lành và hữu ích hơn cho chúng ta. Thú vật ăn thịt như hổ, báo, chó sói… thì rất bạo động và không hữu dụng điều gì cả, khi bị thương chúng rất dễ chết. Những người ăn thịt không nhất định đều to lớn và mạnh khỏe, nhưng tuổi thọ trung bình không cao. Chẳng hạn người Eskimo hoàn toàn ăn thịt tuổi thọ trung bình là 36 năm, còn người Kogi (một bộ tộc ở Pêru - Nam Mỹ) ăn chay trường, tuổi thọ trung bình tới 100 năm.
- Không, khi ăn trứng cũng là giết sinh mạng. Có người cho rằng trứng không thụ tinh thì chưa có sinh mạng nên không thuộc sát sinh, nhưng sự lý luận này chỉ đúng trên bề mặt thôi vì trong trứng đã có một nửa sự sống. Có trường phái lại quan niệm rằng trứng có trống thì ăn được vì đã có quân bình Âm-Dương, nhưng trên thực tế đứng trước một thực phẩm có thành phần trứng ta không thể biết là trứng đó đã có trống hay không. Vậy tốt nhất là đừng ăn vì còn rất nhiều loại thực phẩm ngon bổ không kém để lựa chọn. Cũng có nhiều người cho rằng trứng có chứa nhiều dinh dưỡng như đạm và phốt-phát, tuy nhiên trong đậu nành, khoai tây… còn có nhiều hơn. Tệ hơn nữa, lòng đỏ trứng chứa nhiều chất cholesterol - nguyên nhân gây ra bệnh nghẹt tim, về mặt vô hình thì trứng thu hút trược điển, tà khí, âm khí, cho nên ở ta mới có phong tục cúng hồn người mới chết bằng một chén cơm với một cái trứng luộc như để dụ hồn về. Nếu ta không muốn thu hút những trược điển, âm khí vào quấy rầy bản thể thì đừng ăn trứng.
- Phần lớn các trận chiến tranh xảy ra trên thế giới đều vì những lý do kinh tế, bắt nguồn từ việc thiếu thực phẩm hoặc thực phẩm phân bố không đồng đều dẫn đến xung đột quyền lợi. Nuôi trâu, bò, súc vật để ăn thịt làm cho nền kinh tế thiệt hại trên mọi lĩnh vực và gây nạn đói trên khắp thế giới, nhất là ở những quốc gia trong thế giới thứ ba là những nước chậm tiến (trích công bố trong cuốn Thực phẩm cho một nước Mỹ mới - John Robbin). Phải tốn rất nhiều đạm thực vật, thuốc men, nước ngọt, nhân lực, xe cộ, đất đai… trước khi một con bò đủ lớn để lấy thịt, nếu tất cả những thứ đó được phân phối một cách hợp lý hơn thì sẽ giải quyết được nạn đói. Một quốc gia thiếu thực phẩm, nguồn nước ngọt… sẽ dễ dàng xung đột với quốc gia láng giềng vì để lo cứu vớt dân trong nước họ. Nhưng vấn đề là sự kiện này tạo ra nghiệp xấu và sẽ bị nhân quả. Nếu ta giết kẻ khác để có miếng ăn thì trước sau sớm muộn gì ta cũng bị giết bằng cách này hay cách khác để phục vụ miếng ăn hay quyền lợi của kẻ khác. Chúng ta đã khá văn minh vậy mà phần đông vẫn không biết được nguyên nhân của đau khổ. Chỉ vì thói quen ăn thịt cá, vì lý do nuôi sống bản thân, ta đã giết hại nhiều chúng sinh và bỏ đói nhiều nhân mạng khác. Và tội lỗi này, dù ta có ý thức hay không, sẽ đè nặng lên lương tâm ta, sẽ gây ra tam tai bách nạn, sẽ làm ta phải khổ sở vì bệnh ung thư, bệnh lao và nhiều bệnh bất trị khác kể cả bệnh AIDS. Tại sao dân chúng ở những vùng kém “văn minh” hơn, có đời sống giản dị hơn lại không có tỉ lệ ung thư cao? Vì họ ít ăn thịt và không có thịt để ăn.
(Trích Tiểu luận về vấn đề ăn chay)
Các món ăn với mít non đa phần được chế biến theo khẩu vị của miền Trung rất đậm đà và ngon lành.
Nguyên liệu: Mít non 500g; Chanh 1 quả. Đậu phộng rang giã nhuyễn hoặc mè rang 50g. Đường, muối, tiêu, ớt, ngò gai, húng lủi ...
Cách chế biến gỏi mít:
- Mít luộc xong rửa qua nước lạnh để ráo, xé sợi.
- Chanh vắt nước, thêm đường, muối, tiêu sao cho có vị chua ngọt, hơi mặn. Trộn đều hỗn hợp này với mít đã xé nhuyễn, bày ra đĩa, rắc lên trên ngò gai xắt nhuyễn, vài lát ớt vào đậu phộng hoặc mè.
Ăn kèm bánh đa mè nướng và nước tương chua ngọt.
Gỏi mít trộn
NGUYÊN LIỆU:
- 3 lon mít non loại 20 oz = 560 g
- 6 lon hến loại 10 oz
- Hành hương sắt mỏng, phơi hơi héo héo để phi vàng
- Rau răm (2 bó)
- Ngỗ (1 bó)
- Mè (1 bịch): rang hay nướng vàng
- Chút đường, bột ngọt, bột me, muối, tỏi, ớt bột (nếu muốn cay ít hay nhiều tuỳ ý)
- Dầu ăn
- Bánh tráng: nướng vàng
CÁCH LÀM:
- Mít non: rửa sạch, xắt mỏng và vắt cho ráo nước
- Hến: đổ hết nước và rửa sạch để cho ráo, vắt nhẹ cho ráo hết nước. Đem ướp với hành hương và tỏi xay nhuyễn + tí đường + bột nấm + tiêu và xóc cho đều.
- Xào hến: Bắt chảo dầu khử chút tỏi cho thơm, bỏ hến vào xào rồi nêm bột me, ít muối, ít đường, bột ngọt, ớt bột ... sao cho vừa miệng (hơi chua chua cay cay một chút) ==> để nguội
- Xào mít: Bắt chảo dầu khác khử chút tỏi cho thơm, bỏ mít vào xào rồi nêm bột me, ít muối, ít đường để nguội trước khi trộn chung
- Rau răm 1 bó sắt nhỏ với rau ngỗ để trộn, còn 1 bó rau răm thì sắt to to để sau khi bày ra diã thì rãi len tren cho đẹp mắt.
- Mè: rang hay nướng cho vàng
- Hành hương: phi lên cho vàng và vớt ra để ráo.
Khi mít và hến nguội thì đổ chung lại với nhau, bỏ rau răm và rau ngỗ đã xắt nhỏ vào, cho mè và hành phi vào trộn chung với nhau (nhớ chừa lại một ít hành phi để trang trí lên trên cùng của cái dĩa cho đẹp mắt).
- Bày ra dĩa thì lấy số rau răm xắt to rải lên tren và ít hành phi, cắt vài lát ớt đỏ đỏ trang trí trên cùng cho đẹp mắt.
Mít kho
Nguyên liệu:
Mít non 300g, đường, muối, nước tương, dầu ăn
Cách chế biến:
- Mít non chưa cứng hột xắt miếng hình cánh quạt, dày khoảng 1-2 cm, rửa sạch, phơi nắng cho ráo nước rồi đem chiên vàng hai mặt, gắp ra để miếng.
- Phần dầu trong chảo cho vào một ít xì dầu, muối, đường và chút nước sôi, đun già lửa, nêm nếm lại cho vừa.
- Xếp mít vào nồi, kho nhỏ lửa với hỗn hợp trên, trở đều hai mặt. Khi thấy mít đã ngả màu vàng sậm hơn, lấy đũa xăm thử thấy miếng mít mềm thì tắt lửa.
Ăn mít kho với cơm nóng.
Canh Mít Non Nấu Chua
Nguyên liệu:
- 300gr mít non - 200gr tôm bạc - 3 trái cà chua - 1 vắt me chín - 2 thìa súp hạt nêm - 1 thìa súp nước mắm ngon - 1 thìa súp đường - 2 thìa súp dầu ăn - 2 lít nước - Ngò gai, ngò om, ớt
Cách làm
1. Mít non rửa sạch, thái mỏng, ngâm vào nước muối pha chanh cho sạch mủ, vớt ra để ráo. Cà chua rửa sạch cắt múi cau. Me hòa tan với ít nước sôi. Ngò gai, ngò om, cắt nhỏ. Ớt đập dập lấy vị cay the.
2. Tôm rửa sạch, bóc vỏ chừa đuôi, ướp tôm với ít hạt nêm. Để khoảng 10 phút cho thấm gia vị.
3. Cho cà chua, ớt đập dập vào xào với dầu ăn để ra màu, cho tiếp tôm vào xào săn lại. Rót nước vào nồi nấu sôi. Nêm nước mắm, đường, nước me và hạt nêm vào sao cho có vị mặn, ngọt, chua, cay. Sau cùng thả mít non vào nấu vừa chín, tắt bếp.
4. Múc canh ra tô, rắc rau thơm lên trên.
Canh mít
Mít dùng để nấu canhCác nhà khoa học ở Đại học Haifa, Israel khẳng định nấm linh chi - một loài nấm dại thường dùng trong Đông Y ở Trung Quốc (và Việt Nam) - có thể chữa ung thư tuyến tiền liệt.
Trong cuốn “Thần nông bản thảo” của Trung Quốc đã viết: “Linh chi là thuốc kết tinh được cái quý của mây mưa trên núi cao, cái tinh của ngũ hành trong ngày đêm mà khoe năm sắc nên có thể giữ sức khoẻ cho các bậc đế vương”. Tới thế kỷ 16, Lý Thời Trân gọi Linh chi là loại “Cây cỏ tốt lành. Ăn nhiều lần, cơ thể nhẹ đi mà không già, sống lâu như thần tiên”.
Có tác dụng như vậy là do Linh chi có tác dụng điều hoà mọi chức năng của cơ thể. Tác dụng của Linh chi không giới hạn ở một cơ quan, nội tạng mà phát huy toàn cơ thể.
Có thể dùng Linh chi dài ngày để củng cố, tăng cường sức khoẻ, phòng bệnh từ xa và có tác dụng chống sự phát triển của tế bào ung thư, làm giảm cơn đau của bệnh nhân đã di căn. Nhiều nhà khoa học lớn khẳng định rằng Linh chi cùng một số dược liệu khác có thể chữa được bệnh ung thư.
Mỹ phẩm từ thiên nhiên
Trong kết quả nghiên cứu dược tính có viết Linh chi còn giúp cơ thể thanh trừ các gốc tự do và chống lão hóa. Gốc tự do là các sản phẩm có hại của quá trình chuyển hoá tế bào. Linh chi có tác dụng thanh trừ loại sản phẩm này, làm giảm chất mỡ trong cơ thể, từ đó có khả năng làm chậm quá trình lão hóa và kéo dài tuổi thọ. Chính các thầy lang trước đây cũng đưa Linh chi vào bài thuốc làm đẹp cho phụ nữ. Các vương tôn, quý tộc trong triều đại phong kiến còn dùng Linh chi như một thứ mặt nạ đắp mặt cho làn da trắng, mịn màng hơn.
Trong quá trình nghiên cứu các dưỡng chất từ thiên nhiên, các nhà nghiên cứu của Menard luôn mong muốn khai thác được khả năng làm đẹp cho phụ nữ của Linh chi. Những nghiên cứu ban đầu tập trung vào Linh chi đỏ. Kết quả cho thấy Linh chi đỏ có rất nhiều công dụng cho da. Đưa hoạt chất Linh chi vào bào chế thử nghiệm mỹ phẩm, các nhà nghiên cứu thu được những sản phẩm với hiệu quả rất đặc biệt với chất lượng tốt nhất.
Từ đó, Menard quyết định đầu tư nghiên cứu chuyên sâu loại dược liệu này. Cũng chính nhờ vậy, Menard nhận thấy: Linh chi không chỉ có một loại, và mỗi loại Linh chi cho những tính năng đặc biệt riêng.
Cuối cùng, hai loại Linh chi hàng đầu - Linh chi đen và Linh chi đỏ - được vào dòng sản phẩm Menard Embellir nhằm hồi phục sức sống của các tế bào, trẻ hoá làn da.
CỔ LINH CHI
NHẬN DẠNG CỔ LINH CHI :
* MỘT VÀI KINH NGHIỆM PHÂN BIỆT CỔ LINH CHI VÀ LINH CHI ĐƠN NIÊN :
Cổ Linh Chi : là những tai nấm đã được hoá sừng ở mũ nấm (độ 2-3cm) cứng như đồi mồi, phía bên dưới (thịt nấm) hoá gỗ, có những ốn nấm rõ ràng, phát triển ống nấm từ 1-2mm/năm. Sau khi ngừng phát triển mới bắt đầu hoá sừng hoá gỗ.
Linh Chi hoang dại đơn niên : trông hình thức cũng tương tợ như Cổ Linh Chi nhưng xốp (có thể dùng móng tay bấm thủng) khi bị phân huỷ thì thịt nấm biến thành màu trắng (như vôi). Sau khi được thu hái về nếu không sử dụng cũng tự phân huỷ.