20 tháng 7, 2007

Sầu riêng -một vị thuốc


Sầu riêng - Công dụng như một vị thuốc
Sầu riêng được trồng rất nhiều ở miền Nam được biết đến như một loại trái cây đặc sản của vùng Nam Bộ chủ yếu vì mùi vị thơm ngon của nó. Ít ai biết được rằng sầu riêng còn có công dụng như một vị thuốc, không những trái sầu riêng mà những bộ phận khác cũng có nhiều chức năng hữu ích cho sức khỏe con người.

Sầu riêng là loại cây ăn quả thuộc chi Durio (chi sầu riêng) có nguồn gốc từ ngữ hệ Nam Á . Người Việt gọi là sầu riêng, người Khmer gọi là turen và người Mã Lai - Nam Dương gọi là Djoerian (về sau viết là Doerian). Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới gọi loài cây trái này là Durian hoặc có ký ngữ khác nhưng phát âm tương tự như chữ Durian.

Tuy nhiên, trong chi Durio chỉ có một loài là Durio zibethinus là phổ biến nhất, ở Việt Nam được biết tới 2 giống "sầu riêng mỡ" có lớp cơm màu trắng xám như mỡ và "sầu riêng đường" có lớp cơm màu vàng như đường mía. Theo thời gian, hoặc nhờ khám phá, hoặc nhờ gây giống.

Hiện nay sầu riêng (Durio zibethinus) có độ 70 giống (cultivar), trong đó giống "sầu riêng đường không hạt" có triển vọng và được thế giới tiêu thụ ưa chuộng hơn hết, loài này được gây giống đặc biệt ở Thái Lan và Việt Nam: cơm (thịt) ngọt, không có hạt hoặc hạt bị mai một.

Cây sầu riêng có thể cao tới 40 mét. Lá luôn xanh, đối xứng hình êlip đến hình thuôn dài từ 10-18 cm. Hoa nở từng chùm từ 3-30 trên cành lớn và thân, mỗi hoa có đài hoa và 5 (ít khi 4 hay 6) cánh hoa.

Trái sầu riêng chín sau 3 tháng sau khi thụ phấn. Trái có thể dài tới 40 cm và đường kính 30 cm, nặng từ 1 đến 5 kg. Trái có thể mọc trên thân cây cành. Sầu riêng có thể có trái sau khi trồng 4 tới 5 năm. Màu của trái có thể từ xanh sang nâu, hình dạng thuôn đến tròn. Bên ngoài có lớp vỏ cứng bao với gai nhọn, và mùi nồng đặc trưng tỏa từ thịt bên trong. Nhiều người xem đó là thơm, nhưng có người cho đó là thối. Cả hai kết quả phẩm bình, tuy mâu thuẫn nhưng đều có lý. Trong trái sầu riêng chín, theo các chuyên gia hóa học, có hơn 100 chất, trong đó có một số thuộc ête (ether) thơm, và một số ête thối, có thành phần lưu huỳnh. Thơm hay thối là kết quả của khứu giác cá nhân: tiếp nhận ête thơm trước tiên, hay tiếp nhận ête thối trước tiên mà thôi.

Một đặc điểm nữa của trái sầu riêng là trái chín chỉ rơi (rụng) vào một thời điểm nhất định trong ngày: trái rơi (rụng) nhiều nhất vào lúc giữa đêm (từ 0 tới 1 giờ) và một số ít vào giữa trưa (12 tới 13 giờ), những giờ khác không có trái rơi (rụng). Nhờ đó con người tránh được tai nạn.

Lá mọc so le, đơn, nguyên, hình trứng thuôn dài, đầu nhọn, dày, trên mặt có những lông vảy.
Quả to, hình đầu hay hình trứng dài, vỏ cứng, trên mặt vỏ có rất nhiều gai ngắn, nhọn.
Quả có 5 ngăn, mỗi ngăn chứa 3-5 hạt; quanh hạt có chất cơm màu trắng vàng mùi đặc biệt, hạt có lá mầm dày.
Về thành phần hóa học, trong 100 g cơm sầu riêng có 37,14% nước, 6,38% chất đạm, 2,7% chất béo, 16,2% chất đường và nhiều chất khác.

Người ta thường dùng rễ, lá làm thuốc, có thể dùng tươi hay phơi khô.

Quả sầu riêng ngon, lại có tác dụng kích thích sinh dục, rễ và lá còn được dùng làm thuốc chữa sốt và chữa bệnh về gan và da vàng.

Mỗi ngày có thể dùng khoảng 10 – 16 g dưới dạng thuốc sắc.

Ngoài ra, lá còn dùng dưới dạng nấu nước tắm cho những người vàng da do bệnh gan.
Hạt sầu riêng rang lên hay nấu chín ăn rất bùi , ngày Tết thường được làm thành kẹo...mứt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét